Nghi
lễ là một vấn đề đã trở thành truyền thống trong sinh hoạt tu học của 
giới Phật giáo, nhưng nó cũng có tính chất nhạy cảm vid nghi lễ thuộc 
lĩnh vực yins ngưỡng tâm linh không những của Tăng Ni, Phật tử mà cả 
những người không theo tín ngưỡng Phật giáo. Nghi lễ là biểu hiện lòng 
tôn kính, tín ngưỡng của mỗi người trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do 
đó, qua những thời đại khác nhau, tùy từng địa phương, nghi lễ Phật giáo
đã thay đổi hình thức cho phù hợp với nhu cầu của nhân dân ở đó để 
truyền bá Chánh pháp. 
Nhìn 
lại lịch sử Phật giáo hơn 2.500 năm qua, chúng ta thấy rằng: Ở giai đoạn
đầu, khi Đức Phật còn tại thế, vấn đề nghi lễ chưa có, vì Tăng đoàn 
thời bấy giờ theo sự hướng dẫn trực tiếp của Đức Phật, chỉ chuyên tu 
giới, định, tuệ để được giải thoát, giác ngộ; giới Cư sĩ tại gia thì tin
tưởng và y cứ vào lwoif dạu của Đức Phật mà tu hành, thành tựu các 
thiện nghiệp và thân, miệng, ys để được an lạc, lợi ích hiện đời cũng 
như đời sau. Bởi tin tưởng, hiểu biết thực tế về nhân sinh, cuộc sống 
nên người tu Phật thời bấy giờ không nặng về hình thức lễ nghi, không 
nương vào tha lực. 
Sau
khi Phật vào Niết Bàn, Phật giáo truyền bá rộng rãi ra các nước, nhất 
là các nước phương bắc, vì phương tiện độ sanh, chư Tổ đã tùy theo phong
tục, tập quán của mỗi dân tộc mà chế tác ra nghi lễ để dễ bề cảm hóa 
nhân dân bản xứ. Ở Trung Hoa, là một trong những quốc gia có nềm văn 
minh lâu đời, lễ nhạc phong phú, Phật giáo muốn nhiếp phục được các nhà 
tri thức và giới thượng lưu đương nhiên phải làm cho phần nghi lễ trở 
nên thiêng liêng, huyền bí. Vì vậy, nghi lễ Phật giáo từng bước được 
định hình. Do chư Tổ Trung Hoa biên soạn nên nghi lễ Bắc tông Phật giáo 
toàn bằng Hán văn, sau này các bậc Tôn túc đã cố gắng dịch ra Việt văn 
nhưng chỉ phiên âm chư không dịch nghĩa. 
Trong
khi đó Phật giáo các nước trên thế giới phần lớn theo hệ thống Phật 
giáo Nguyên thủy (Theraveda) đều tụng kinh bằng tiếng Pafli, một cổ ngữ 
mà đa số người Việt Nam chúng ta không thể hiểu được. Trong khi nghi lễ 
lấy sự tụng kinh làm quan trọng, nhưng chỉ tụng kinh mà không hiểu nghĩa
kinh thì kết quả rất giới hạn. Không hiểu đúng đã đành mà lắm khi còn 
hiểu sai, ví dụ cho rằng tụng kinh là cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho 
tiêu tội thêm phước, khỏi cần hiểu và thực hành gì nữa nên dễ rơi vào mê
tín, tà kiến. Do đó, đã đến lúc Giáo hội chỉ đạo Ban Nghi lễ xúc tiến 
biên soạn nghi lễ bằng Việt văn cho tất cả Phật tử Việt Nam dễ sử dụng 
trong các cuộc lễ, từ lễ lớn tới lễ nhỏ. 
A. BỐI CẢNH VÀ SỰ HÀNH LỄ 
Lễ
nghi trong Phật giáo là bảy tỏ lòng thành kính đối với các bậc đáng tôn
kính như Tam Bảo, Ông Bà, Cha Mẹ và tất cả những người thân kẻ sở đã 
qua đời. Hiến dâng lễ vật không cốt để cho ngời chết được hưởng mà chỉ 
để bày tỏ lòng kính mến, để nhớ ơn và để phát nguyện làm những điều tốt 
lành mà những người đi trước đã làm. Điều này chỉ là những biểu hiện tùy
theo truyền thống và văn hóa của mỗi dân tộc có ảnh hưởng tư tưởng hiếu
niệm trong Phật giáo. Như thế hình thức này cần nên đơn giản nhưng phải
trang nghiêm thành kính. 
Cầu
nguyện theo quan niệm Phật giáo là không phải van xin thần thánh hay 
bất cứ một lực lượng thần linh nào. Cầu nguyện là tâp trung dòng tư 
tưởng về một mối duy nhất, tập trung năng lực tinh thần chuyển đổi quan 
niệm mê lầm, xấu ác trở nên trong sáng và lương thiện. Cầu nguyện vì thế
chính là phương pháp nhìn lại con người thật của mình, quan sát ý thức 
và trừ khử mọi khát vọng phàm tình, ích kỷ, ỷ lại, yếu đuối. Cầu nguyện 
là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người. 
Như
vậy lễ nghi là lòng khiêm hạ, là bày tỏ sự kính thành. Cầu nguyện là 
cách thức đãi lọc tâm tánh, là phát khởi những dòng tâm niệm trong sáng,
hữu ích, nung nấu ý chí, trau giồi đạo hạnh cho mình và hướng dẫn người
khác. 
Nghi thức các khóa lễ luôn có bốn phần: 
1.
Tác bạch: Gồm cả phần niêm hương cúng dường Tam Bảo. Phần tác bạch như 
một lời trình về duyên sự của buổi lễ (theo nghi thức Nam tông thì có 
thêm bài thỉnh chư Thiên). Đây là khởi đầu của tất cả buổi lễ. 
2. Lễ Tam Bảo: Là phần xưng tán và lễ Tam Bảo. Tất cả các thời khóa đều có phần này dù đầy đủ hay giản lược. 
3.
Phần kinh văn: Gồm những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh thần 
của khóa lễ đã xướng trong lời tác bạch. Phần này có thể linh động. Vị 
chủ lễ có thể chọn những bài kinh thích hợp với thời giờ, hoàn cảnh và 
căn cơ của những người tham dự khóa lễ. 
4.
Phần hoàn kinh: Là phần sau cùng của mỗi khóa lễ với kinh Từ Bi nguyện 
(nghi thức Nam tông), Bát Nhã tâm kinh (nghi thức Bắc tông), hồi hướng, 
phục nguyện và tự quy tam tự quy y. 
Theo
quan điểm của chúng tôi, ở các phần 1, 2, 4 tùy mỗi Hệ phái Phật giáo 
có thể khác nhau về hình thức lễ nghi, miễn sao được trang nghiêm và 
không quá rườm rà là được, nhưng phần kinh văn cần nên Việt hóa toàn bộ.
Bởi vì, khi tụng niệm kinh Phật thì cốt để người nghe hiểu được nghĩa 
lý mà thực hành. Bởi những nghi lễ được cử hành không ngoài mục đích nêu
lên ý nghĩa như kỷ niệm Phật đản sanh, xuất gia, thành đạo, Niết bàn, 
những người tham dự lễ sẽ nghe và hiểu được phần nào mục đích sự ứng 
thân thị hiện của Đức Phật nơi cõi đời. Còn tụng niệm cho Phật tử tại tư
gia, nghi lễ cũng phải rõ ràng cho họ hiểu như thế nào là nghiệp lực, 
thiện ác, nhân quả, siêu đọa để họ tự giác ngộ y theo lời Phật dạy và tu
hành theo. Pháp của Đức Phật được định nghĩa là Sanditthiko (thiết thực
hiện tại), Akàliko (không có thời gian), Ehipassiko (đến để mà thấy). 
Trong khi chúng ta hành trì các pháp môn Phật dạy, chúng ta hưởng được 
ngay quả an lạc hạnh phúc do pháp môn ấy mang đến. Hãy giúp cho những 
người hành lễ hiểu Đức Phật là bậc đạo sư chớ không phải là vị thần 
linh. Như vậy mới đúng ý nghĩa nghi lễ của Phật giáo là một trong những 
phương tiện hoằng pháp lợi sanh. 
B. BIÊN SOẠN NGHI LỄ BẰNG TIẾNG VIỆT 
Theo
đề nghị của Ban Nghi lễ Trung ương thì hãy Việt hóa toàn bộ nghi lễ 
trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trong quyển Văn học sử Phật giáo của 
Giáo sư Cao Hữu Đính nêu rõ “Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đi hành đạo 
đến địa phương nào thì thuyết pháp bằng tiếng địa phương đó”. Điều này 
không có gì là lạ, vì một khi ta muốn người khác hiểu được ta, tất nhiên
ta phải nói thế nào cho họ nghe và hiểu được. Chúng ta đều biết rằng, 
nghe để hiểu đúng thì thực hành mới có kết quả, chớ không phải chỉ có 
tin suông là đủ. Vì vầy cần sử dụng nghi lễ theo ngôn ngữ địa phương để 
phù hợp cho việc hoằng pháp lợi sanh. Hiện nay, Phật giáo các nước trê 
thế giới, họ cũng sử dụng nghi lễ bằng tiếng địa phương họ như Trung 
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Miến Điện … thì tại sao Việt Nam mình lại 
không thực hiện được. 
Trong
bối cảnh hiện nay, theo chúng tôi nghĩ là soạn một nghi thức chung cho 
tất cả các hệ phái là điều không thể thực hiện được trong vòng vài ba 
chục năm tới, vì có những kinh quan trọng của hệ phái này, nhưng ngược 
lại của hệ phái khác cũng như không thể tìm được sự nhất trí trong cách 
đặt trọng tâm vào kinh tạng Nam tông hay kinh tạng Bắc tông. Vì vậy, 
trước mắt trong khả năng có thể thực hiện được, chúng ta nên soạn một 
nghi thức Lễ Phật đản chung cho các hệ phái. Dù Bắc tông, Nam tông hay 
Khất sĩ chúng ta đều là Phật tử Việt Nam, tại sao chúng ta lại không thể
tụng chung một bài kinh bằng tiếng mẹ đẻ của mình? Bước tiếp theo phải 
tạo điều kiện cho tất cả những quyển nghi thức đã và đang được soạn ra 
cùng đi về một hướng, từng bước tiến tới, trong tương lai chỉ còn vài ba
quyển nghi thức cho những hệ phái lớn. 
Trong
việc biên soạn này không gì hơn là hệ thống hóa lại các quyển nghi thức
đã có sẵn từ trước bằng tiếng Việt, nếu cần có thể bổ sung thêm cho mỗi
nghi thức một số bài kinh trong kinh tạng mà Đức Phật đã giảng dạy. Bài
pháp nào Đức Phật dạy phù hợp với mỗi nhu cầu thì trích lời kinh đó đưa
vào, chỉ cần sắp xếp lại cho phù hợp câu văn, chớ không nên lấy văn ý 
của mình mà đưa vào nghi lễ đọc tụng rồi gọi đó là kinh Phật. 
C. KẾT LUẬN 
Nghi
lễ là sự biểu hiện lòng tôn kính và tin tưởng của mọi ngời đối với Tam 
Bảo một cách có hệ thống, có bài bản. tùy theo tập quán của mỗi địa 
phương mà hình thành nghi lễ. Đây cũng là một phương tiện không thể 
thiếu trong việc hoằng pháp lợi sanh và trang nghiêm thêm cho công hạnh 
tu học, tụng niệm, lễ bái, thờ phụng đúng Chánh pháp. Nhưng chúng ta nên
nhớ rằng: Phương tiện bao giờ cũng giống như con dao hai lưỡi, nó có 
công dụng tốt, cũng có công dụng không tốt. Nếu chúng ta biết sử dụng 
nghi lễ để tuyên dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh là phước báo cho 
chư Thiên và loài người, ngược lại mượn nghi lễ để mưu cầu lợi dưỡng thì
tai hại vô cùng. Có sự ý thức về những nguyên lý Phật học thì những 
hình thức nghi lễ sẽ phục vụ đạo pháp và cho con người một cách tốt đẹp,
đem đến sự an lạc. Nhưng vắng mặt tinh thần đạt đạo và không ý thức 
được những nguyên lý Phật học thì những hình thức sinh hoạt này lập tức 
biến thành nguy hại, những phương tiện bị chấp chặc và coi như là cứu 
cánh. Cho nên người Phật tử không thể không thâm nhập kinh tạng, thâm 
nhập hành trì để nắm bắt những nguyên lý căn bản của nền triết học Phật 
giáo , từ đó mới có thể buông bỏ những hình thức được mệnh danh là Đạo 
Phật nhưng kỳ thực tác hại cho Đạo Phật./.